Bệnh
đậu được phát hiện ở hầu hết các loài gia cầm và chim trời, phân bố rộng khắp ở
các châu lục. Bồ câu là một trong các loài chim thường thấy mắc bệnh đậu ở bồ câu gây ra
do virut đậu.
1. Nguyên nhân bệnh đậu ở bồ câu
là một virut Avian poxvirus, họ
Poxviridac, chủng
gây bệnh cho bồ câu. (Deoki và Tripathy, 1991).
Các hoá chất sau đây có thể diệt
được virut: phenol-1% formalin 1/1000 sau 9 ngày; dung dịch NaOH -1% chỉ trong
nửa giờ. ở nhiệt độ 600C, virut bị chết sau 8 phút. Trong nhiệt độ lạnh âm
virut có thể tồn tại hàng năm.
2. Bệnh lý và lâm sàng
Virut xâm nhập vào cơ thể bồ câu qua tiếp xúc ngoài da. Virut cũng xâm
nhập niêm mạc mũi, niêm mạc phế quản khi bồ câu hít
thở không khí có nhiễm mầm bệnh. Virut phát triển ở các tế bào biểu bì da, xung
quanh các bao lông và niêm mạc miệng, vòm khẩu cái, tạo ra các nốt sùi đặc
trưng cho bệnh đậu. Các nốt đậu đầu tiên đỏ, sau mọng mủ trắng, vỡ ra, chảy
dịch vàng, để lại nốt loét trên niêm mạc hoặc trên mặt da, đóng vảy màu nâu.
Các mụn đậu cũng lan đến niêm mạc mắt, sưng to, vỡ ra làm nổ mắt vật bệnh.
Biến chứng nguy hiểm cho chim bệnh là các mụn đậu phát triển ở phế quản phổi,
gây viêm phổi cấp do bội nhiễm các vi khuẩn đường hô hấp. Một số trường hợp,
virut đậu còn xâm nhập đường tiêu hoá, gây các tổn thương niêm mạc dạ dày và
ruột. Chim bệnh có biến chứng hô hấp hoặc tiêu hoá sẽ phát bệnh nặng, chết
trong khoảng thời gian 3-5 ngày và tỷ lệ chết 100%.
Bình thường chim bị bệnh đậu, các biểu hiện lâm sàng cũng như các mụn đậu sẽ
giảm dần và hồi phục sức khoẻ sau 7-10 ngày, tỷ lệ chết 15-20%.
3. Dịch tễ học
Chim ở các lứa tuổi đều có thể mắc bệnh đậu. Nhưng thường thấy chim non 1-6
tháng bị nhiễm bệnh nhiều hơn.
Bệnh đậu cũng là một trong các bệnh virut phổ biến gây nhiều thiệt hại cho bồ
câu non. Bệnh đậu phát triển quanh năm. Nhưng thường xuất hiện nhiều vào mùa
xuân có khí hậu ấm, ẩm ướt và mùa thu chuyền sang mùa đông.
4. Chẩn đoán
- Chẩn đoán lâm sàng: có thể quan sát các mụn đậu ở mặt da và các niêm mạc
đường hô hấp trên để xác định bệnh đậu.
- Chẩn đoán virut: phân lập virut hoặc làm phản ứng huyết thanh để chẩn đoán
bệnh đậu.
5. Điều trị bệnh
- Thuốc bôi lên các mụn đậu: Bleu-methylen 5/1000; Lugol 5/1000
- Hàng ngày bôi lên các mụn đậu ngoài da của chim bệnh.
- Sử dụng một trong hai kháng sinh sau đây tiêm hoặc pha nước cho uống:
- Tiamulin: Liều 10mg/kg thể trọng, tiêm bắp thịt liên tục 3-4 ngày hoặc liều 1g/lít nước cho uống liên tục 3-4 ngày.
- Oxytetracyclin: Liều 20mg/kg thể trọng, tiêm bắp liên tục 3-4 ngày.
- Cần cho chim uống thêm vitamin B1, C, A, D.
- Vắc xin phòng bệnh đậu được đóng trong lọ kín và luôn luôn được bảo quản ở nhiệt độ thấp.
- Kinh nghiệm chọn vắc xin và chủng đậu cho chim, gà: Chọn mua vắc xin bệnh đậu ở bồ câu, gà của những hãng sản xuất thuốc thú y lớn có uy tín, đảm bảo chất lượng. Mua ở những cửa hàng thuốc thú y có đủ điều kiện bảo quản vắc xin đúng tiêu chuẩn kỹ thuật ngành. Lọ vắc xin phải còn nguyên nhãn mác, thời hạn sử dụng, cơ sở sản xuất rõ ràng.
- Dùng vắc xin nội với liều gấp 1,5 lần so với hướng dẫn cho hiệu quả phòng bệnh cao. Pha lọ vắc xin liều 200 con với 1ml nước cất hoặc nước đun sôi để nguội chủng cho 150 con là vừa. Dùng kim chủng đậu (loại chuyên dùng) hoặc kim máy khâu, ngòi bút học sinh để chủng.
- Cách chủng: Chấm kim vào lọ vắc xin (đã pha) xong đâm xuyên qua màng cánh (nơi không có lông). Tốt nhất là dùng đoạn chỉ khâu dài 2cm luồn qua lỗ kim khâu vá thủ công, nhúng đít kim và đoạn chỉ vào lọ vắc xin, xuyên kim qua màng cánh theo chiều từ trên xuống dưới sao cho vắc xin ngấm vào da qua vết thương không rơi xuống đất là được.
- Sau khi chủng đậu 7 ngày phải kiểm tra, nếu có vết đậu mọc là tốt, nếu không thấy phải chủng lại.
6. Phòng bệnh
- Phòng bệnh bằng vacxin, chủng vacxin đậu nhược độc vào dưới da cho chim hoặc
nhỏ vào lông cánh và bôi dung dịch vacxin vào đó. Vacxin thường dùng là vacxin
virut đậu nhược độc.
- Thực hiện vệ sinh chuồng trại và môi trường; giữ chuồng luôn khô sạch, thoáng
mát mùa hè, ấm áp mùa đông.